Lịch sử hoạt động Lớp tàu khu trục C và D

Chiếc HMCS Restigouche khoảng năm 19421943

Cả năm chiếc thuộc lớp C được phân về Chi hạm đội Khu trục 2 thuộc Hạm đội Nhà khi chúng nhập biên chế vào năm 1932. Sau khi Ý xâm chiếm Abyssinia, toàn chi hạm đội được gửi đến Hồng Hải vào tháng 8 năm 1935 theo dõi sự điều động các tàu chiến Ý cho đến tháng 4 năm 1936. Được tái trang bị sau khi quay trở về, chúng được điều đến vùng biển Tây Ban Nha trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào những năm 1936-1937 ngăn chặn tàu chở vũ khí và bảo vệ các tàu mang cờ Anh. Crescent và Cygnet được bán cho Hải quân Hoàng gia Canada vào năm 1937, tiếp nối bởi Comet và Crusader vào năm 1938; lần lượt được đổi tên tương ứng thành HMCS Fraser, HMCS St. Laurent, HMCS Restigouche và HMCS Ottawa. Kempenfelt cũng được mua vào năm 1939 và đổi tên thành HMCS Assiniboine, nhưng Hải quân Hoàng gia Anh trì hoãn việc bàn giao con tàu cho đến khi có đủ tàu hộ tống chống tàu ngầm được nhập biên chế thay thế cho nó sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra.

Cả bốn chiếc lớp C được đặt căn cứ tại Esquimalt thuộc British Columbia khi chiến tranh bắt đầu, nhưng chỉ có Fraser và St. Laurent được gọi quay trở lại để bắt đầu nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải tại bờ biển Đại Tây Dương; hai chiếc kia tiếp nối vào tháng 11. Assiniboine được gửi đến vùng biển Caribe cho nhiệm vụ hộ tống vận tải tại chỗ vào tháng 12, nơi nó giúp vào việc chặn bắt chiếc tàu vượt phong tỏa MV Hannover vào tháng 3 năm 1940. Fraser, St. Laurent và Restigouche được chuyển sang Anh vào cuối tháng 5, và đã giúp vào việc triệt thoái người tị nạn khỏi Pháp. Fraser bị đắm ngày 25 tháng 6 năm 1940 do va chạm với tàu tuần dương HMS Calcutta tại cửa sông Gironde, trong khi hai chiếc kia được điều về Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây cho nhiệm vụ hộ tống đoàn tàu vận tải.[26]

Những chiếc còn lại trải qua hết thời gian chiến tranh hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương, đặt căn cứ tại Anh hoặc Canada. Ottawa đã hỗ trợ tàu khu trục Anh Harvester trong việc đánh chìm tàu ngầm Ý Comandante Faà di Bruno vào ngày 7 tháng 11 năm 1940. Nó bị tàu ngầm Đức U-91 đánh chìm vào ngày 14 tháng 9 năm 1942 đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON 127. St. Laurent có chiến công đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1942 khi nó được công nhận đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-356 đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON 154.[27] Cùng với tàu khu trục Anh HMS Forester và các tàu corvette HMCS Owen SoundHMCS Swansea, nó đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-845. Đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải SC 94 vào ngày 3 tháng 8 năm 1942, Assiniboine đã húc trúng và đánh đắm tàu ngầm Đức U-210. Restigouche không đánh chìm được tàu ngầm đối phương nào, nhưng nó cùng với St. Laurent được chuyển sang Anh để bảo vệ các tàu bè tập trung cho Chiến dịch Overlord vào tháng 5 năm 1944, với Assiniboine tiếp nối vào tháng 7. Chúng đã chiến đấu cùng các tàu tuần tra Đức tại vịnh Biscay, nhưng Restigouche và St. Laurent lúc này ở trong tình trạng vật chất tồi tệ, được gửi về Canada để sửa chữa vào cuối năm 1944, và ở lại Canada sau khi hoàn tất vào đầu năm 1945, còn Assiniboine tiếp tục ở lại Anh cho đến tháng 6. Cả ba đã tham gia hồi hương binh lính Canada sau ngày chiến thắng cho đến khi chúng được cho xuất biên chế vào cuối năm 1945. Cả ba bị tháo dỡ trong các năm 1946-1947.[26]

Sau khi nhập biên chế vào các năm 1932-1933, lớp D hình thành nên Chi hạm đội Khu trục 1 và được phân về Hạm đội Địa Trung Hải. Chi hạm đội đã tuần tra tại vùng vịnh Ba Tư và Hồng Hải vào tháng 9tháng 11 năm 1933. Sau khi được tái trang bị tại Anh vào năm 1934, chúng được điều sang Trạm Trung Quốc, đi đến Hồng Kông vào tháng 1 năm 1935 và được đổi tên thành Chi hạm đội Khu trục 8. Hầu hết chi hạm đội được gửi đến Hồng Hải khi Ý xâm chiếm Abyssinia vào năm 1935-1936. Chúng quay trở lại Hồng Kông vào giữa năm 1936, ở lại đây cho đến khi Thế Chiến II nổ ra. Trừ Diamond đang trong một đợt tái trang bị kéo dài cho đến tháng 11, phần còn lại của chi hạm đội được lập tức điều sang Hạm đội Địa Trung Hải. Daring được giữ lại ở Hồng Hải cho nhiệm vụ hộ tống cho đến tháng 11, số còn lại sử dụng trong nhiệm vụ tuần tra. Tất cả đều cần phải được sửa chữa, vốn được thực hiện trước cuối năm.[28]

Duncan, Diana, Duchess, Delight và Daring được chuyển sang Hạm đội Nhà vào tháng 12 năm 1939, cho dù Duchess bị chiếc thiết giáp hạm Barham mà nó hộ tống húc phải và bị đắm vào ngày 10 tháng 12. Duncan cũng bị hư hại nặng do va chạm với một tàu buôn vào tháng 1 năm 1940, khiến mất đến 6 tháng để sửa chữa. Daring bị tàu ngầm Đức U-23 đánh chìm vào ngày 18 tháng 2 đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải từ Na Uy. Diana và Delight được phân công hộ tống các đoàn tàu vận tải vào đầu năm 1940 trước khi tham gia Chiến dịch Na Uy trong tháng 4-tháng 6. Trong khi tìm cách vượt qua eo biển Anh Quốc vào ban ngày bất chấp lệnh cấm, Delight bị máy bay Đức đánh chìm vào ngày 29 tháng 7. Sau một đợt sửa chữa ngắn trong tháng 7tháng 8, Diana được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada thay thế cho chiếc HMCS Fraser bị đắm do va chạm với một tàu tuần dương Anh. Nhập biên chế ngày 6 tháng 9, và được đổi tên thành HMCS Margaree, con tàu được phân nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương; nhưng đến ngày 22 tháng 10, nó bị đắm do va chạm với chiếc tàu hàng MV Port Fairy.[28]

Bốn chiếc còn lại của chi hạm đội được điều đến Freetown, Tây Phi một thời gian ngắn vào đầu năm 1940 để hộ tống các đoàn tàu vận tải qua lại khu vực này cũng như truy tìm các tàu cướp tàu buôn Đức. Tất cả chúng được gọi quay lại Địa Trung Hải vào tháng 4tháng 5 phòng ngừa việc Ý tham chiến. Decoy, Defender và Dainty đã đánh chìm hai tàu ngầm Ý, riêng Dainty còn cùng với tàu khu trục Ilex đánh chìm thêm một tàu ngầmđ ối phương vào tháng 6 trước khi tham gia trận Calabria vào đầu tháng 7.[28] Diamond gia nhập cùng các tàu chị em vào cuối tháng 7, và cả bốn chiếc đã hộ tống vận tải và bảo vệ tàu bè của Hạm đội Địa Trung Hải cho đến hết năm. Duncan được điều về Lực lượng H vào tháng 10, cùng với Diamond và Defender tham gia trận chiến mũi Spartivento bất phân thắng bại vào tháng 11. Decoy bị hư hại do không kích trước đó và phải sửa chữa cho đến tháng 2 năm 1941.[28]

Đang khi tuần tra ngoài khơi bờ biển Bắc Phi vào ngày 24 tháng 2 cùng với tàu khu trục Hasty, Dainty bị máy bay ném bom Đức đánh chìm. Duncan, Diamond và Defender tiếp tục vai trò hộ tống cần thiết vào đầu năm 1941, mặc dù Duncan được chuyển sang Freetown vào tháng 3. Decoy, Defender và Diamond tham gia triệt thoái binh lính Đồng Minh khỏi Hy Lạpđảo Crete vào tháng 4-tháng 5, nơi mà Diamond bị máy bay Đức đánh chìm vào ngày 27 tháng 4. Sau khi Defender tham gia tấn công SyriaLiban dưới sự kiểm soát của lực lượng Vichy Pháp vào tháng 6, nó tham gia cùng Decoy hộ tống các đoàn tàu vận tải đến Tobruk, và bị hư hại nặng khi quay trở về sau một chuyến như thế. Chiếc tàu khu trục bị một mát bay ném bom Đức Junkers Ju 88 tấn công vào ngày 11 tháng 7, và sau đó bị chiếc tàu khu trục Úc Vendetta cùng đi đánh đắm. Duncan gia nhập lại Lực lượng H cùng tháng đó, hộ tống cho nhiều đoàn tàu vận tải đi đến Malta trước khi quay trở về Anh vào tháng 10 cho một đợt tái trang bị kéo dài. Decoy bị hư hại do một vụ va chạm vào tháng 12, và được sửa chữa tại Malta cho đến tháng 2 năm 1942.[28]

Decoy được chuyển sang Hạm đội Đông vào tháng 3, và đã hộ tống cho Lực lượng B khi các tàu sân bay Hải quân Nhật tấn công Ceylon. Lực lượng B không bị phía Nhật phát hiện, và chiếc tàu khu trục ở lại hạm đội này cho đến khi được gọi về nhà để cải biến thành một tàu khu trục hộ tống. Sau khi hoàn tất việc tái trang bị vào tháng 1 năm 1942, Duncan lại gia nhập Lực lượng H, hộ tống cho nhiều chiến dịch vận chuyển máy bay tiêm kích Không quân Hoàng gia Anh đến Malta trước khi được điều chuyển sang Hạm đội Đông vào tháng 4 để hỗ trợ Chiến dịch Ironclad nhằm chiếm đóng Diego Suarez vào đầu tháng 5. Nó cũng được gọi quay trở về Anh để cải biến thành một tàu khu trục hộ tống.[28]

HMCS Ottawa vào khoảng năm 19421943

Đang khi cải biến, Decoy được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada vào ngày 1 tháng 3 năm 1943, và nhập biên chế ngày 12 tháng 4 dưới cái tên HMCS Kootenay. Nó được phân về Đội hộ tống C5 cho nhiệm vụ hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Bắc Đại Tây Dương. Vào tháng 4, Duncan gia nhập Đội hộ tống B-7.[29] Đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON-207 vào ngày 23 tháng 10, cùng với tàu khu trục Vidette và một máy bay Consolidated B-24 Liberator thuộc Phi đội 224 Không quân Hoàng gia Anh, Duncan đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-274.[30] Cùng trong tháng đó, ngày 29 tháng 10, Duncan chia sẻ chiến công đánh chìm tàu ngầm Đức U-282 cùng với Vidette và tàu corvette Sunflower đang khi hộ tống đoàn tàu vận tải ON-208. Cả hai tiếp tục nhiệm vụ hộ tống cho đến tháng 5 năm 1944, khi chúng được điều sang Anh tham gia Chiến dịch Overlord. Duncan được điều sang Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây làm nhiệm vụ chống tàu ngầm cho đến hết chiến tranh. Kootenay được giao nhiệm vụ bảo vệ tàu bè Đồng Minh trong eo biển Anh Quốc và vịnh Biscay. Cùng với các tàu khác, nó tham gia đánh chìm tàu ngầm Đức U-678 vào ngày 7 tháng 7 năm 1944, U-621 trong vịnh Biscay ngày 18 tháng 8, và hai ngày sau, U-984 ở phía Tây Brest, Pháp.[29]

Sau một đợt tái trang bị kéo dài tại Canada từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 2 năm 1945, Kootenay quay trở lại Anh và điều sang Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó được sử dụng để chuyên chở binh lính Canada hồi hương sau ngày chiến thắng cho đến khi được xuất biên chế vào tháng 10; nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1946. Duncan ngừng hoạt động vào tháng 5 và bị bán vào tháng 7, cho dù việc tháo dỡ nó chỉ hoàn tất vào năm 1949.[29]